Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO), năm 2017, thế giới có 22 trường hợp mắc bệnh bại liệt. Cho đến 5 tháng đầu năm 2018, số ca mắc bại liệt được ghi nhận đã giảm xuống còn 8 trường hợp (7 trường hợp ở Afghanistan và 1 trường hợp ở Pakistan). Trong khi đó, xu thế giao lưu quốc tế ngày càng gia tăng, nguy cơ lây truyền virus gây bệnh bại liệt vào Việt Nam vẫn còn là vấn đề hiện hữu. Bộ Y tế khuyến cáo, người dân cần duy trì tiêm chủng để tạo miễn dịch bảo vệ, quyết liệt phòng bệnh bại liệt cho đến khi căn bệnh này được thanh toán hoàn toàn trên quy mô toàn cầu.

Bệnh bại liệt là gì?

Theo thông tin từ Bộ Y tế: Bại liệt là bênh truyền nhiễm cấp tính do virus Polio( bại liệt) gây ra. Virus bại liệt gồm 3 týp 1, 2 và 3. Sau khi vào cơ thể, virus sẽ xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương gây nên tổn thương ở các tế bào thần kinh vận động. Bệnh có thể gây tử vong hoặc để lại di chứng liệt không hồi phục và tàn tật suốt đời.

Virus Polio từ người bệnh hoặc người lành mang trùng gây bệnh lây nhiễm vào nguồn nước, thực phẩm rồi vào đường tiêu hóa, có thể lan truyền thành dịch lớn nếu miễn dịch cộng đồng thấp. Những trường hợp không có miễn dịch, virus có thể xâm nhập từ đường ruột vào cơ thể, nhân lên và gây bệnh. Những người này tiếp tục gây bệnh cho những người xung quanh.

Các loại vắc xin phòng bệnh bại liệt

Vắc xin bại liệt là thành quả của toàn nhân loại, đã được đưa vào sử dụng trên thế giới lần đầu tiên vào năm 1952. 10 năm sau đó, vắc xin bại liệt đường uống Sabin (OPV) được sản xuất thành công tại Việt Nam. Sự có mặt của vắc xin đã góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh bại liệt lên tới 99,9% trên cả 3 chủng virus.

Sau khi vắc xin bất hoạt và vắc xin sống giảm độc lực được đưa vào sử dụng hiệu quả, bệnh bại liệt đã được kiểm soát, tỷ lệ mắc và tử vong đã giảm đáng kể. Số lượng các trường hợp bại liệt trên toàn thế giới đã giảm hơn 99%: từ 350.000 trường hợp vào năm 1988 xuống còn 33 trường hợp vào năm 2018.

Tuy vậy, để tích cực phòng bệnh, ngăn chặn nguy cơ bệnh bại liệt quay trở lại bất cứ lúc nào, ngoài việc triển khai công tác tiêm phòng bại liệt cho trẻ dưới 1 tuổi bằng vắc xin đơn, thì các vắc xin phối hợp cũng được nhà sản xuất tích hợp thành phần ngừa bại liệt giúp trẻ phòng bại liệt hiệu quả song song với việc tạo miễn dịch đối với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác.

Hiện nay, có 3 loại vắc xin phòng bệnh bại liệt:

Vắc xin bại liệt đường uống OPV

Vắc xin sống giảm độc lực dạng uống (OPV) chứa virus bại liệt sống đã làm suy yếu, có tác dụng kích thích cơ thể tạo miễn dịch. Miễn dịch này giúp cho cơ thể phòng vệ không cho virus xâm nhập vào cơ thể. Vắc xin bại liệt dạng uống này nằm trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng và trẻ được uống khi 2,3, và 4 tháng tuổi.

Vắc xin bại liệt đường tiêm IPV

Vắc xin bất hoạt dạng tiêm (IPV) chứa virus bại liệt chết (sau khi xử lý) có tác dụng kích thích cơ thể tạo miễn dịch phòng bệnh. Tiêm vắc xin IPV đã được đưa vào trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng cho trẻ 5 tháng tuổi trên toàn quốc từ năm 2018.

Vắc xin phòng bệnh bại liệt phối hợp

Tại các điểm tiêm phòng dịch vụ, các loại vắc xin phối hợp có thành phần ngừa bại liệt bao gồm:

  • Vắc xin 6in1 Infanrix Hexa (Bỉ) và 6in1 Hexaxim (Pháp) ngừa được 6 bệnh bao gồm bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và các bệnh gây do vi khuẩn Haemophilus influenzae týp B (Hib) gây ra.
  • Vắc xin 5in1 Pentaxim (Pháp) ngừa được 5 bệnh bao gồm bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván và các bệnh gây do vi khuẩn Haemophilus influenzae týp B (Hib).
  • Vắc xin Tetraxim (Pháp) ngừa được 4 bệnh bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván.

Vì sao cần tiêm phòng vắc xin bại liệt?

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO): Bệnh bại liệt chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em dưới 5 tuổi, cứ 1 trong 200 ca nhiễm bệnh sẽ dẫn đến tê liệt không hồi phục. Trong số những người bị tê liệt, 5% – 10% ca tử vong do cơ hô hấp ngừng hoạt động. Ở Mỹ, vào cuối những năm 1940, dịch bệnh bại liệt đã làm tê liệt trung bình hơn 35.000 người mỗi năm.

Tại Việt Nam, những năm trước khi có vắc xin, bại liệt trở thành một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu và để lại di chứng nặng nề ở trẻ dưới 5 tuổi, gây ra các vụ dịch lớn vào năm 1957-1959 với tỷ lệ mắc bại liệt năm 1959 là 126,4/100.000 dân.

Nhờ triển khai uống vắc xin phòng bệnh bại liệt và nhiều năm duy trì tỷ lệ uống vắc xin ở mức cao trên 90%, bệnh bại liệt đã dần được khống chế, ca bệnh cuối cùng được ghi nhận tại Việt Nam là từ năm 1997. Việt Nam đã chính thức được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000.

Trên thế giới, việc thanh toán bệnh bại liệt cũng đã giúp chính phủ của các quốc gia tiết kiệm được 1,5 tỷ USD mỗi năm cho chi phí điều trị và phục hồi chức năng các di chứng do bệnh bại liệt gây ra (theo WHO).

Vắc xin bại liệt nên tiêm hay uống?

Chương trình TCMR ở Việt Nam được Nhà nước tài trợ (miễn phí) đang triển khai 2 loại vắc xin bại liệt, bao gồm vắc xin Sabin qua đường uống có tên chung là vắc xin bại liệt uống OPV và vắc xin dạng tiêm có tên chung là vắc xin bại liệt bất hoạt IPV. Bên cạnh đó, vắc xin bại liệt cũng có trong thành phần của những mũi tiêm phối hợp (vắc xin 6in1 Infanrix Hexa, 6in1 Hexaxim, vắc xin 5in1 Pentaxim, vắc xin 4in1 Tetraxim) ở các điểm tiêm phòng dịch vụ.

Việc chủng ngừa bại liệt đủ liều theo khuyến cáo bằng vắc xin qua đường uống hay đường tiêm đều mang đến hiệu quả phòng bệnh như nhau. Tuy vậy, nếu trẻ tiêm vắc xin có thành phần bại liệt trong các mũi vắc xin phối hợp tại các điểm tiêm dịch vụ, trẻ vừa phòng được bại liệt lại vừa có kháng thể bảo vệ trước nhiều căn bệnh nguy hiểm khác trong cùng 1 mũi tiêm chủng.

Việc chọn tiêm phòng vắc xin bại liệt tiêm hay uống, vắc xin TCMR hay dịch vụ là tùy thuộc vào sự lựa chọn và điều kiện của từng gia đình. Điều quan trọng nhất là cần phải tiêm/uống đủ mũi và đúng lịch để nâng cao tối đa hiệu quả phòng bệnh của vắc xin.

Đối tượng nào cần tiêm phòng bại liệt?

Hầu hết trẻ em sống cùng nhà hoặc tiếp xúc với người mang mầm bệnh có thể bị nhiễm virus. Đối tượng có nguy cơ cao nhất bị nhiễm virus bại liệt là những người chưa được tiêm phòng vắc xin bại liệt. Trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ dưới 5 tuổi là những đối tượng có nguy cơ cao nhất bị nhiễm bệnh bại liệt.

Những trường hợp cần tiêm vắc xin phòng bại liệt bao gồm:

  • Trẻ em từ 2 tháng tuổi trở lên;
  • Những người làm công việc chăm sóc trẻ em; nhân viên y tế; kỹ thuật viên làm việc trong phòng xét nghiệm…

Tiêm phòng bại liệt khi nào, lịch tiêm phòng bại liệt cho trẻ

Hiện nay, lịch uống và tiêm vắc xin bại liệt của chương trình TCMR là uống 3 liều vắc xin bại liệt (OPV) vào thời điểm trẻ 2, 3 và 4 tháng tuổi, khi trẻ 5 tháng tuổi sẽ tiêm 1 mũi vắc xin bại liệt (IPV).

Đối với tiêm phòng dịch vụ, các mũi tiêm có thành phần bại liệt bao gồm:

  • Vắc xin 6in1 Infanrix Hexa (Bỉ) và 6in1 Hexaxim (Pháp), vắc xin 5in1 Pentaxim (Pháp) tiêm 3 mũi chính từ 2, 3, 4 tháng tuổi. Mũi 4 tiêm nhắc lại khi trẻ 16 đến 18 tháng tuổi.
  • Vắc xin phòng 4 bệnh Tetraxim (Pháp) nên được bắt đầu từ tháng thứ 2. Hai mũi tiếp theo tiêm cách nhau khoảng 1 đến 2 tháng. Mũi nhắc lại được tiêm vào năm thứ 2.

Uống/tiêm phòng bại liệt có sốt không? Những phản ứng phụ sau khi uống/tiêm vắc xin bại liệt?

Uống/tiêm phòng bại liệt có sốt không là thắc mắc của rất nhiều Bố Mẹ khi đưa con đi chủng ngừa. Cũng như những loại vắc xin khác, vắc xin bại liệt qua đường uống hoặc đường tiêm cũng có những tác dụng không mong muốn như: sưng, đau tại vị trí tiêm, sốt, quấy khóc sau khi uống vắc xin. Tuy nhiên, Bố Mẹ không nên quá lo lắng vì đây đều là những phản ứng bình thường của cơ thể khi tiếp nhận vắc xin. Tuỳ vào cơ địa của từng trẻ, có trẻ không sốt, có trẻ sốt sau vài ngày. Do đó Bố Mẹ cần thường xuyên theo dõi tình trạng của trẻ và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu muốn cho trẻ sử dụng thuốc hạ sốt.

Những lưu ý khi tiêm phòng vắc xin bại liệt

Theo Quyết định 2470/QĐ-BYT của Bộ Y tế, không tiêm vắc xin bại liệt cho người có bất kỳ dị ứng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, hoặc có thể tạm hoãn tiêm chủng nếu người được tiêm vắc xin đang cảm thấy không khỏe.

Các trường hợp chống chỉ định tiêm vắc xin bại liệt bao gồm:

  • Có tiền sử sốc hoặc phản ứng nặng sau tiêm chủng vắc xin lần trước (có cùng thành phần): sốt cao trên 39°C kèm co giật hoặc dấu hiệu não/màng não, tím tái, khó thở.
  • Suy giảm miễn dịch (bệnh suy giảm miễn dịch bẩm sinh, trẻ nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng IV hoặc có biểu hiện suy giảm miễn dịch nặng) chống chỉ định tiêm chủng các vắc xin sống giảm độc lực.
  • Các trường hợp chống chỉ định khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất đối với từng loại vắc xin.

Các trường hợp tạm hoãn tiêm chủng:

  • Có tình trạng suy chức năng các cơ quan (như suy hô hấp, suy tuần hoàn, suy tim, suy thận, suy gan, hôn mê…).
  • Trẻ mắc các bệnh cấp tính, các bệnh nhiễm trùng.
  • Trẻ sốt ≥ 38°C hoặc hạ thân nhiệt ≤ 35,5°C (đo nhiệt độ tại nách).
  • Trẻ mới dùng các sản phẩm globulin miễn dịch trong vòng 3 tháng (trừ kháng huyết thanh viêm gan B) nên tạm hoãn tiêm chủng vắc xin sống giảm độc lực.
  • Trẻ đang hoặc mới kết thúc đợt điều trị corticoid (uống, tiêm) liều cao (tương đương prednison ≥2mg/kg/ngày), hóa trị, xạ trị trong vòng 14 ngày cũng nên tạm hoãn tiêm chủng vắc xin sống giảm độc lực.
  • Trẻ mắc các bệnh tim bẩm sinh hoặc mạn tính kèm theo tăng áp lực động mạch phổi (≥40mmHg).
  • Các trường hợp tạm hoãn tiêm chủng khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất đối với từng loại vắc xin.

Không nên trì hoãn tiêm chủng nếu chỉ mắc các bệnh đường hô hấp hoặc cấp tính nhẹ mà không sốt, vì chỉ khi tiêm phòng đúng liều đúng lịch, vắc xin mới đạt được hiệu phòng bệnh tốt nhất.

Theo dõi và chăm sóc trẻ sau tiêm phòng vắc xin bại liệt

Tổ chức Y tế Thế giới cho biết: Các vắc xin rất an toàn. Rất hiếm khi xảy ra các phản ứng nghiêm trọng tới sức khoẻ. Đa số các phản ứng thường gặp như đau, xuất hiện quầng đỏ, sưng tại nơi tiêm, sốt nhẹ sẽ tự khỏi sau vài ngày.

Tuy nhiên, để đề phòng những phản ứng không mong muốn, Quyết định 2535/QĐ- BYT của Bộ Y tế đã hướng dẫn chi tiết cách theo dõi và chăm sóc sau tiêm chủng.

Người được tiêm chủng phải được theo dõi tại nhà ít nhất 24 giờ sau tiêm chủng. Trường hợp người được tiêm chủng là trẻ em thì ba mẹ, người thân nên theo dõi và chăm sóc trẻ, lưu ý các dấu hiệu cần theo dõi sau tiêm chủng bao gồm:

  • Toàn trạng;
  • Tinh thần, tình trạng ăn, ngủ;
  • Dấu hiệu về nhịp thở;
  • Nhiệt độ, phát ban;
  • Các biểu hiện tại chỗ tiêm (sưng, đỏ…)

Trẻ em sau khi tiêm chủng cần cho trẻ bú mẹ hoặc uống nước nhiều hơn. Bế, quan sát trẻ thường xuyên và chú ý không chạm, đè vào chỗ tiêm.

Người được tiêm chủng cần được đưa ngay tới cơ sở y tế để theo dõi, điều trị nếu có dấu hiệu tai biến nặng sau tiêm chủng có thể đe dọa đến tính mạng của người được tiêm chủng bao gồm các triệu chứng như khó thở, sốc phản vệ hay sốc dạng phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt cao co giật, trẻ khóc kéo dài, tím tái, ngừng thở…

Tiêm phòng vắc xin bại liệt ở đâu?

Để tiêm/uống vắc xin bại liệt cho trẻ, phụ huynh có thể liên hệ trạm Y tế phường, xã, Trung tâm Y tế dự phòng, hoặc các trung tâm tiêm chủng dịch vụ uy tín. Nên lựa chọn những nơi thường xuyên cập nhật đủ vắc xin, đặc biệt là có điều kiện cơ sở vật chất, dây chuyền bảo quản vắc xin đạt chuẩn để đảm bảo vắc xin được lưu trữ tốt nhất.

Trung tâm tiêm chủng vắc xin Hạnh Phúc – Hạnh Phúc Vaccine Center là trung tâm cung cấp các dịch vụ tiêm phòng tại Lâm Đồng cho trẻ em và người lớn với đa dạng các loại vaccine phòng bệnh theo tiêu chuẩn. Đến với HPVC, bạn sẽ hoàn toàn yên tâm với chất lượng dịch vụ chuyên nghiệp và đa dạng


Bệnh dại là một bệnh nhiễm trùng hiếm gặp nhưng gây ra hậu quả rất nghiêm trọng ở não và dây thần kinh. Bệnh thường bị bắt từ vết cắn hoặc vết xước của động vật bị nhiễm bệnh, thường là chó.

1. Thời gian phát triển của bệnh dại

Các triệu chứng bệnh dại ở người có thể xảy ra nhanh trong tuần đầu tiên sau nhiễm virus.

Các triệu chứng ban đầu của bệnh dại rất khái quát, bao gồm cơ thể yếu, sốt và đau đầu. Nếu không có tiền sử phơi nhiễm với động vật dại, những triệu chứng này sẽ không làm tăng sự nghi ngờ về bệnh dại vì chúng rất giống với bệnh cúm thông thường hoặc các hội chứng virus khác.

Sau khi xâm nhập vào cơ thể người, virus dại phát triển ở lớp mô trong cùng bên dưới da người (được gọi là mô dưới da), hoặc từ cơ bắp, vào các dây thần kinh ngoại biên (tức là các dây thần kinh trong cơ thể nằm ngoài não hoặc tủy sống).

Virus di chuyển dọc theo dây thần kinh đến tủy sống và não với tốc độ ước tính 12 – 24 mm mỗi ngày.

Thời gian ủ bệnh dao động từ vài ngày đến vài tháng, và có thể dài tới 1 năm.

Bệnh dại ở người

2. Cần làm gì khi nghi ngờ bị bệnh dại?

Xử lý vết thương sau khi bị cắn:

Vết thương cần được rửa và rửa ngay lập tức với xà phòng và nước trong 10 phút 15 phút. Nếu xà phòng không có sẵn thì xả nước. Đây là việc làm giúp sơ cứu hiệu quả nhất nguy cơ bị bệnh dại.

Vết thương cần được làm sạch hoàn toàn với 70% rượu/ethanol hoặc povidone-iodine (nếu có).

Càng sớm càng tốt, đưa người đó đến cơ sở chăm sóc sức khỏe để tiếp tục điều trị.

Những điều nên tránh: Áp dụng chất kích thích vào vết thương như ớt bột, nước ép thực vật, axit hoặc kiềm.Băng vết thương bằng gạc vết thương.

Theo dõi động vật gây ra vết thương: thời gian ủ bệnh dại từ vài ngày đến vài tháng, trong khi thời gian bị bệnh – cho đến khi chết – thay đổi từ 1 đến 7 ngày.

Bệnh dại chó được đặc trưng bởi những thay đổi so với bình thường của nó hành vi, chẳng hạn như:

Cắn mà không có bất kỳ sự khiêu khích

Ăn các vật bất thường như gậy, móng tay, phân, vv

Chạy không có mục đích rõ ràng

Thay đổi âm thanh, ví dụ: khàn khàn và gầm gừ hoặc không có khả năng phát ra âm thanh

Tiết nước bọt hoặc tạo bọt quá mức ở các góc miệng – nhưng không phải hydrophobia (chứng sợ nước).

Theo dõi các dấu hiệu của bệnh trên cơ thể người:

Việc làm này giúp chuẩn bị tốt nhất các biện pháp dự phòng bệnh, các biểu hiện thường gặp trước khi phát bệnh bao gồm:

Đau hoặc ngứa tại vị trí vết thương bị cắn (trong 80% trường hợp)

Sốt, khó chịu, đau đầu kéo dài trong 2- 4 ngày

Chứng sợ nước

Không dung nạp tiếng ồn, ánh sáng hoặc không khí.

Sợ cái chết sắp xảy ra.

Tức giận, khó chịu và trầm cảm.

Ở giai đoạn sau, chỉ nhìn thấy kích thích co thắt ở cổ và cổ họng.

3.Tiêm vacxin phòng bệnh dại (PEP)

 

Dự phòng bệnh dại sau phơi nhiễm (PEP) là bắt buộc nếu bạn bị chó, mèo hay động vật khác cắn bị bệnh dại hoặc nghi ngờ bị nhiễm bệnh dại. PEP được yêu cầu trong các điều kiện sau:Nếu vết cắn đã làm vỡ da và vết thương là sự chảy máu.Nếu màng nhầy tiếp xúc với nước bọt từ một động vật nghi ngờ.Nếu con vật đã cắn ai đó:

  1. Bị giết
  2. Biến mất trong thời gian quan sát
  3. Hiển thị hành vi bất thường, thất thường
  4. Nếu xét nghiệm trong phòng thí nghiệm vật liệu não từ nghi ngờ hoặc động vật dại là dương tính.

Tiêm phòng dại cho thú nuôi là cách phòng ngừa bệnh dại lây truyền sang người. Những gia đình nuôi thú nuôi cần tiêm phòng cho chó ở 6 – 8 tuần tuổi và tiêm phòng cho mèo ở 8 tuần tuổi hoặc theo hướng dẫn của bác sĩ thú y.

Trung tâm tiêm chủng vắc xin Hạnh Phúc – Hạnh Phúc Vaccine Center là trung tâm cung cấp các dịch vụ tiêm phòng tại Lâm Đồng cho trẻ em và người lớn với đa dạng các loại vaccine phòng bệnh theo tiêu chuẩn. Đến với HPVC, bạn sẽ hoàn toàn yên tâm với chất lượng dịch vụ chuyên nghiệp và đa dạng

nurse-putting-bandaid-on-girls-arm-after-getting-immunization.jpeg

Theo dõi tình trạng sau khi tiêm chủng là rất quan trọng, đặc biệt đối với trẻ em. Việc trẻ quấy khóc, khó chịu sau khi tiêm là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, không ít phụ huynh vẫn băng khoăn không biết đâu là biểu hiện bình thường, đâu là những phản ứng bất thường sau khi tiêm chủng. Bài viết sau sẽ giúp phụ huynh giải đáp thắc mắc và hướng dẫn cách chăm sóc trẻ sau tiêm. 

Trung tâm tiêm chủng vắc xin Hạnh Phúc - Hạnh Phuc Vaccine Center

CN1: 25 Đinh Tiên Hoàng, P2, Bảo Lộc, Lâm Đồng
CN2: 305 Hùng Vương, Di Linh, Lâm Đồng
Hotline: 026.33.726.999
Email: hpvc.contact@gmail.com
Website: hpvc.vn

Copyright by Hanh Phuc Vaccine Center 2021. All rights reserved.